PHẦN MỘT : Tập Khí Công Tịnh Độ Cơ Bản.
Áp dụng cho tất cả mọi người, mọi trình độ dù đã biết qua KCYĐ hay chưa, vẫn cần phải ôn tập hàng ngày giống nhau.
Bài I : Tấp Đóng Mở Thiên Môn
Nguyên tắc : Bế Quan, Giữ Giới, Định Thần :
Bế Quan là nhắm mắt, cuốn lưỡi, ngậm miệng, tai nghe tiếng động ở đỉnh đầu ở huyệt Thiên Môn.
Có thể giúp cho mình biết huyệt Thiên Môn ở đâu, thì vị trí trên đầu mỗi người mỗi khác tùy theo người đã có tu thiền hay không. Nó là đường giữa đỉnh đầu, dùng ngón tay cái ấn đè từ sau đỉnh đầu lên phía trước sẽ cảm nhận thấy có một đường rãnh hơi lõm hay một cái lỗ nhỏ gần nơi huyệt Bách Hội.
Ai tu tập thiền không liên tục, thay đổi nhiều pháp môn thì trên đường đó có nhiều lỗ lõm không liên tục, còn chỉ tu một pháp môn thời gian lâu liên tục thì có đường rãnh lớn kéo qua huyệt Bách Hội tiến về trước trán, nơi giao điểm ở nơi lõm nhất chính là Thiên Môn. Dùng kim thử tiểu đường châm vào huyệt này để trụ ý cho dễ.
Giữ Giới là chăm chỉ niệm A-Di-Đà-Phật theo CD, để Ý dẫn Phật Quang vào ra huyệt cho đúng cách (dùng từ A-Mi-Ta-Bha. là đấng toàn năng toàn giác, là Thượng Đế cho những người ngoại quốc hay những người không phải Đạo Phật).
Định Thần là lúc niệm thầm bằng Ý, ngưng thở, chỉ nghe máy niệm, thời gian 1 câu A-D-Đà-Phật, để trụ Ý vào một huyệt Thiên Môn.
Trong lúc định thần lắng nghe sự cảm nhận được Phật Quang vào huyệt Thiên Môn đỉnh đầu tạo ra dòng từ trưòng làm tê mát đỉnh đầu.
Tập niệm 3 thì :
Thì thứ nhất, có thể tập niệm ra tiếng theo CD 1 câu A-D-Đà-Phật tưởng tượng Phật quang vào Thiên Môn.
Thì thứ hai thì niệm bằng Ỳ theo CD nhưng ngưng thở chỉ định thần ở Thiên Môn.
Thì thứ ba, niệm ra tiếng, Ý tưởng ượng cho tà khí hàn nhiệt trong người thoát ra khỏi huyệt Thiên Môn.
Người mới tập, mỗi thì vào, ngưng, ra khỏi Thiên Môn là a câu A-Di-Đà-Phật.
Nguời tập lâu hơi dài hơn áp dụng thì vào niệm 2 câu A-Di-Đà-Phật, thì ngưng niêm 1 câu, thì ra niệm 2 câu.
Có thể tập mỗi thì : vào, ngưng, ra đều 2 câu bằng nhau nếu không bị ngộp hơi.
Bài II : Tích Nạp Điện và Phóng Điện :
Có 3 giai đoạn : Xả Trược, Nạp Năng Lượng Phật Quang, Phóng Năng Lượng Phật Quang
Giai đoạn một : Xả Trược:
a-Xả Trược cá nhân :
Bế Quan : Ngồi trên ghế, lưng thẳng, hai chân chạm đất, hai bàn tay ngửa đặc trên đùi, nhắm mắt.
Giữ giới : Miệng niệm ra tiếng theo CD theo 3 thì :
Thì vào Thiên Môn, tưởng tượng Phật Quang từ đỉnh đầu Thiên Môn thao câu niệm A-D-Đà-Phật.
Thì ngưng thở để định thần, nhưng niệm bằng Ý nghĩ chỉ đến năng lượng Phật Quang đang tụ ở Đan Diền Thần.
Thì xả trược, miệnh lại niệm ra tiếng A-Di-Đà-Phật, Ý nghĩ đến huyệt Lao Cung nơi lòng bàn tay ở cả hai tay, tưởng tượng tà khí hàn nhiệt trong người tuôn xuất ra hai lòng bàn tay.
Tập đúng sẽ có cảm nhận đỉnh dầu trước nóng sau mát, áp huyết và nhiệt trên đầu hạ. Mặt hồng dịu, tươi sáng. Đan Điền Thần nóng ấm, hai bàn tay nóng ấm rịn mồ hôi..
b-Xả trược tập thể :
Nhiều nguời tập chung, mỗi người ngồi trên một ghế rời nhau, tập như trên cùng nhịp thở theo CD niệm Phật
Giai đoạn hai : Nạp Năng Lượng Phật Quang .
Bế quan : Như trên, nhưng hai lòng bàn tay úp trên đùi, hai chân phải đi giầy dép hoặc không cho chân chạm đất.
Giũ giới : Bàn tay dương đặt ở Đan Điền Thần, bàn tay âm đặt ở Đan Điền Tinh
Niêm ra tiếng A-Di-Đà-Phật theo CD 2 câu Ý trụ Thiên Môn, Ngưng niệm ra tiếng, Ý trụ ở Đan Điền Thần, để định thần, chỉ nghe khí nhiệt động ở Đan Điền Thần trong thời gian 2 câu niệm Phật. Thì niêm ra tiếng tưởng tượng thở ra năng lượng Phật Quang tỏa ra chỉ ở bàn tay dương nóng ấm
Sau khi đã tập quen niệm phát ra tiếng, thì tập sang niệm bằng Ý, làm sao cho khí chuyển động trong bụng nơi Đan Điền Thần càng chậm, càng nhẹ như có như không, chì cần định thần theo dõi Đan Điền thần nóng ấm từ từ và nghe được mạch máu đập bịch bịch dưới bàn tay dương, cho đến khi có trạng thái sao mình không thở mà nhịp tim vẫn đập, không thấy ngộp hơi, đó là trạng thái đã biết thở bằng hơi thở của bào thai, gọi là thai tức.
Để duy trì trạng thái này, Đạo Gia gọi là giai đoạn Sơ Nhất Chuyển :
Sơ Nhất Chuyển lo tròn luyện kỹ
Xây đắp nền thần-khí giao thông
Diệt trừ phiền não lòng không
Thất Tình Lục Dục tận vong Đơn thành
Tâm đạo phát thanh thanh tịnh tịnh
Dưỡng thánh-thai chơn bỉnh Đạo huyền
Ngày đêm cướp khí hạo nhiên
Hiệp hòa tánh mạng hống-diêmn giao đầu
Giai đoạn ba: Tập Phóng Năng Lượng :
Khi bàn tay đã phân cực âm dương. Ngồi trên ghế cạnh bàn dùng hai ly nước lạnh giống nhau, đo độ pH bằng nhau, đặt úp hai bàn tay lên hai ly nước. Dùng Ý niệm A-D-Đà-Phật vào Thiên Môn đưa năng lượng vào Đan Điền Thần . Định thần ngưng thở ở Lao Cung bàn tay dương, dùng Ý thở ra phóng năng lượng A-Di-Đà-Phật vào ly nước. Tập khoảng 10 phút. Sau khi tập xong, đo độ pH hai ly nước thấy thay đổi chênh lệch, ly có năng lượng thì thanh, thơm nhẹ, ly kia mùi tanh.
PHẦN HAI : Làm thế nào có được bàn tay năng lượng để khám và chữa bệnh ?
A- Khám bệnh bằng bàn tay năng lượng
Sau khi học và nghiên cứu lại sách Khí Công Y Đạo vừa tái bản ở VN, từ trang " Nguyên tắc dùng Khí Công Chữa Bệnh ". Đó là phương pháp căn bản tạo bàn tay năng lượng dùng để khám bệnh và chữa bệnh. Chúng ta cần phải đạt được những yêu cầu sau đây :
1-Hai bàn tay đã được phân cực âm dương :
Khi chúng ta ngồi trên ghế, cuốn lưỡi ngậm miệng, nhắm mắt tĩnh lặng, hai bàn tay xòe ra đối mặt hai lòng bàn tay với nhau, cách nhau 2 gang tay, tưởng tượng như đang kéo co một đoạn giây thung, kéo hai lòng bàn tay xa ra 3 gang, co lại cho hai bàn tay gần lại 1 gang...kéo ra xa, co lại gần chậm từ từ nhiều lần, chúng ta sẽ cảm thấy như giữa hai lòng bàn tay có một luồng khí đang xoay tròn như một qủa bóng khí, tập luyện nhuần nhuyễn năng lượng càng nhiều thì qủa bóng khí càng to dần có đường kính từ 1 gang đến 3 gang.
2-Nghe được dây khí giữa hai lòng bàn tay bị ngắt đoạn bao nhiêu lần :
Nối hai cực khí âm dương ở hai lòng bàn tay thành một sợi dây khí, cuốn lưỡi, nhắm mắt, ngậm miệng, giữ nguyên khoảng cách giữa hai lòng bàn tay từ 2 gang đến 3 gang, nhắm mắt nghe khí giữa hai lòng bàn tay đang chạy qua chạy lại. Nhờ người khác dùng bàn tay xòe tưởng tưọng cắt đứt doạn dây khí ấy, xem mình có cảm giác nhận biết có người đang ngắt dòng khí của mình không, tập ngắt nhiều lần mà mình vẫn đoán dúng chính xác số lần bị ngắt.
Trình độ cao hơn nữa cần để ý khi bị ngắt khí thì bàn tay trái hay bàn tay phải cảm nhận được, điều đó có nghĩa là người ngắt điện đang dùng bàn tay dưong đối với bàn tay dương của mình thí mình nghe động ở bàn tay dương đẩy ra vì hai cực dương đẩy nhau, nếu họ đảo ngược bàn tay dương đối mặt với bàn tay âm của mình thì mình nghe dộng ở bàn tay âm hút vào.
3-Hai bàn tay tạo thành một máy scan khám bệnh.
Không dùng cách đặt tay theo nguyên tắc diện áp điện, mà chỉ dùng từ trường và biến thế.
Thầy khám ngồi ghế, bệnh nhân ngồi ghế trước mặt thầy khám làm sao cho bàn tay dương của thầy khám đối diện với Mạch Nhâm (bụng ngực), bàn tay âm của thầy khám ở sau lưng bệnh nhân (Mạch Đốc)
Hai bàn tay thầy khám đặt cách xa Mạch Nhân-Đốc của bệnh nhân từ 1 đến 2 gang tay. Hai bàn tay đối nhau nối thành một luồng từ trường năng lượng xuyên qua người bệnh nhân. Cần chu ý những điểm sau đây :
a-Bàn tay nào dương hay âm của người khám cảm thấy ấm nóng, cái nóng từ bàn tay mình phát ra hay từ người bệnh nhân phóng ra. Bàn tay đằng trước hay bàn tay đằng sau nóng hơn.
Nếu từ bệnh nhân phóng ra, khi khác cực hút nhau có nghĩa là bàn tay dương hút âm khí nhiệt trong người bệnh nhân, hoặc bàn tay âm hút dương khí nhiệt trong người bệnh nhân ra. Nếu tiếp tục để cho khí âm hay dương nhiệt trong người bệnh nhân bị hút ra thì thân nhiệt bệnh nhân thay đổi nên người sẽ hết bệnh nóng hay lạnh.
b-Khi bàn tay năng lượng định được vùng bệnh nóng lạnh, và biết được tà khí trong người bệnh nhân phóng ra, mình cảm thấy lòng bàn tay như bị kim châm hay ngứa. Để tránh nhiễm bệnh, bàn tay đó sẽ kéo ra xa người bệnh nhân từ từ, như cách xa 20cm, 22cm. 25cm, nếu còn nóng rát ngứa thì kéo thêm ra xa 27cm, 30cm, 35cm, đừng xa qúa làm mất cảm giác ở lòng bàn tay thì cách chữa lại vô hiệu. Bàn tay kia vẫn giữ nguyên khoảng cách như cũ. Như vậy lực từ trường thành máy biến thế như bên khoảng cách ngắn là dòng diện từ trường 110 voltd sang bên tay khoảng cách xa hơn biến thành 220 volts hay 360 volts....
c-Nếu bàn tay thầy chữa cảm nhận được bị người bệnh nhân hút vào thì bệnh thuộc hư chứng, nó cần bổ, tùy theo nó thu hút bàn tay nào, dương hay âm, thì cứ để cho nó hút vào. Nếu chì hút bàn tay dương, chứng tỏ bệnh nhân dư âm thiếu dương. Nếu chỉ hút bàn tay âm thôi thì bệnh nhân dư dương thiếu âm. Nếu cả hai bàn tay bị hút, là thiếu cả âm lẫn dương, thì hai bàn tay thầy chữa từ từ mở rộng cho hai bàn tay mình xa dần trong chừng mực mà vẫn còn thấy bị hút, có nghĩa là tăng cường độ thu hút năng lượng của người thầy.
d-Đến giai đoạn này mới biết trình độ và công phu tập luyện của các thầy khác nhau :
Nếu không tập luyện, thì bệnh nhân lấy hết năng lượng của thầy và bằng với lực của thầy, người thầy sẽ mất sức, lần sau chữa không có kết qủa. Tối về phải tập thu nạp năng lượng mới có thể chữa tiếp.. Trình độ này là trình độ năng lượng giống như xài một cục pile, hết pile phải thay pile khác.
Nếu có tập luyện ít thì năng lượng chỉ như pile tự xạc, như một cái cell phone, dùng hết pile thì tối vế cắm lại máy vào ổ điện để hôm sau có máy dùng tiếp.
Cả hai trường hợp này không nên dùng phương pháp chữa bằng năng lượng, thầy chữa sẽ trở thành bệnh nhân vì hao tổn nhiều khí lực, mất nội lực. Giống như những người học massage để hành nghề, mỗi ngày không thể massage được quá 10 người, sẽ tổn thọ, trở thành người mất lực gầy ốm, và không thể hành nghề được qúa 5 năm vì không còn đủ sức khỏe.
Chỉ có những thầy chữa, trong người có máy thu năng lượng mặt trời thì mới không mất sức, bệnh nhân muốn thu lấy bao nhiêu cũng được. Muốn có năng lượng trình dộ này phải tập bài Đóng-Mở Thiên Môn, Thu phóng năng lượng, và những bài tập Khí Công Tịnh Độ.
Tuy nhiên năng lượng này tùy theo các thầy tu học hay không, nếu không thì chỉ có năng lượng cõi tam giới, còn tu học Khí Công Tịnh Độ sẽ có năng lượng từ chư Phật mới đạt được huyền lực.
e-Ngoài ra còn tùy theo Nghiệp-Cảm của mỗi bệnh nhân, có nghĩa là bệnh nhân có tin vào cách chữa này hay không, vì nếu hiểu luật nhân-qủa và Đạo Học, thì linh hồn của họ có tánh linh biết hợp tác với thầy chữa và biết được khả năng của thầy chữa có thể cứu được thân xác để linh hồn còn chỗ dựa để tu học và tiến hóa, ngược lại bệnh nhân vô tâm, phó mặc cho thầy chữa muốn làm gì thì làm, nên vô minh che lấp, không có sự chiêu cảm nào thì năng lượng có vào cũng tan biến mất.
Trong hình 87 phần Tham Khảo Các Cách Đặt Tay Trên Nhâm-Đốc có 3 trục : Trục Bổ Huyết, Trục Bổ Khí, Trục Bổ Ngũ Tạng Khí Huyết, nên áp dụng thường xuyên.
Còn khi tập luyện để có kinh nghiệm và nâng cấp khả năng thu phóng năng lượng thì nên tập chung với nhau hết 94 cách đặt tay theo hình, nhưng phóng và nạp năng lượng Phật Quang dùng Ý niệm A-Di-Đà-Phật vào đỉnh đầu, ra bàn tay phải hay tay trái tùy theo trường hợp bệnh của mỗi bệnh nhân.
B-Chữa bệnh tập thể bằng năng lượng :
Có thể các thầy và bệnh nhân cùng ngồi quây vòng tròn, ghế chạm ghế, nam nữ đều đặt tay giống nhau, bàn tay trái nâng cao úp xuống, ngửa bàn tay phải đặt lên đùi phải để cho người bên cạnh đặt bàn tay trái của họ lên, giữa hai lòng bàn tay hai người hơi hở ra mới cảm nhận được dòng điện từ trường chạy qua.
Mở CD Niệm Phật Tứ Giai để cùng nhau tập luyện Ý, Khí,và Thần
1-Giai doạn thông Thiên Môn cho Phật Quang thanh khí vào và trược khí ra :
Mọi người nhắm mắt, niệm ra tiếng theo CD, hai câu đầu A-Di-Đà-Phật, A-Di-Đà-Phật tượng tượng Phật Quang từ trên cõi Phật phóng vào đỉnh đầu ở huyệt Thiên Môn cảm thấy mát, tê, lăn tăn..., cũng vẫn đặt Ý ở Thiên Môn khi niệm hai câu sau A-Di-Đà-Phật, A-Di-Đà-Phật tưởng tượng tà khí hàn nhiệt trong người đang thoát ra khỏi huyệt Thiên Môn cảm thấy nóng ấm. Cứ đọc niệm ra tiếng 2 câu vào, 2 câu ra lâu khoảng 5-10 phút, hay tập đến khi có cảm nhận rõ ràng khí vào thí mát, khí ra thì nóng mới là tập đúng.
2-Tập Xả Trược xuống hai lòng bàn chân :
Tiếp tục tập niệm 2 câu vào đỉnh đầu, 2 câu cho tà khí hàn nhiệt thoát ra từ hai gan bàn chân nơi huyệt Dũng Tuyền xuốn lòng đất. Tập 5-10 phút khi nào có cảm nhận chân đùi nóng ấm hơn trước. Nó cũng là bài tập làm hạ áp huyết, dành cho người tâp khí công tịnh độ mà có áp huyết cao cần phải tập thời gian lâu hơn cho áp huyết thấp xuống lọt tiêu chuẩn.
3-Tập thông khí lực ra bàn tay.
Có bốn cách tập :
a-Tập Xả trược khí :
Hai bàn tay ngửa đặt trên 2 đùi. Cũng tập niệm Phật như trên, 2 câu vào đỉnh đầu, hai câu cho tà khí thoát ra 2 lòng bàn tay ở huyệt Lao Cung. Tập cho đến khi hai bàn tay nóng xuất mồ hôi, đó là cách xả trược.
b-Tập cho bàn tay dương phóng năng lượng.
Bàn tay âm úp lên đùi, bàn tay dương đặt ngửa trên đùi. Niệm 2 câu đầu nạp phật quang vào huyệt Thiên Môn đỉnh đầu, hai câu sau cho Phật Quang thoát ra bàn tay dương nơi huyệt Lao Cung. Tập thật nhiều ngày từ năm này đến năm khác thì sẽ có bàn tay năng lượng huyền lực.
c-Tập cho bàn tay âm rút năng lượng.
Hai bàn tay đặt ngửa trên đùi. Niệm hai câu đầu tượng tượng Phật Qaung thu vào lòng bàn tay âm, nơi huyệt Lao Cung, hai câu niệm sau thì phóng năng lượng ra lòng bàn tay dương ra khỏi Lao Cung.
d-Truyền năng lượng theo vòng tròn.
Tất cả mọi người đều niệm theo CD, hai câu đầu Phật Quang vào Thiên Môn, hai câu sau, tất cả mọi người đều phóng ra huyệt Lao Cung ở lòng bàn tay bên trái truyền sang người bên trái. Cứ hai câu vào đỉnh đầu, hai câu sau truyền sang cho người bên trái.
Tập 10 phút sẽ cảm nhận bàn tay nóng ấm, rịn mổ hôi, nếu để ý kỹ sẽ cảm nhận có một luồng điện từ trường năng lượng chạy chuyền theo vòng tròn, năng lượng vào bàn tay phải rồi sang bàn tay trái của mình nhiều lần liên tục. và cứ thế chuyền từ người bên phải sang người bên trái trở về lại mình là một vòng, và mình cảm nhận được năng lượng chuyền nhiếu vòng theo mỗi câu niệm Phật.,
4-Tập khám bệnh và chữa bệnh tập thể bằng vòng năng lượng.
a-Truyền năng lượng tập thể.
Thí dụ có 10 người tập kể cả thầy và bệnh nhân. Khi từ trường năng lượng của người bên phải mình qua người mình là người thứ nhất, đếm thứ tự theo vòng ngược chiều kim đồng hồ thì người ngồi bên tay trái của mình là người thứ chín.
Tiếp tục cùng tập niệm Phật cho Phật Quang vào đỉnh đầu, ra khỏi huyệt Lao Cung nơi lòng bàn tay trái khoảng 15 phút thì tất cả mọi người đều cảm thấy khoẻ mạnh hồng hào.
b-Khám và chữa bệnh tập thể.
Nếu chúng ta tập khám bệnh bằng cách này thì mọi người niệm Phật theo CD bằng Ý trong đầu, không niệm ra tiếng. Tập 10 lần liên tục cho 10 người. Có bao nhiêu người tập thì phải tập đủ bấy nhiêu vòng.
Lần thứ nhất : Hai câu đầu, ý nghĩ đến Phật Quang vào huyệt Thiên Môn đỉnh đầu, hai câu sau ý dẫn khí ra khỏi huyệt Lao Cung lòng bàn tay trái.
Nhưng để ý lần thứ nhất là năng lượng của ngưòi thứ nhất bên phải đi qua trong người mình có nơi nào cảm nhậnthấy đau nhức hay không, nếu không có gì khác lạ, chứng tỏ người thứ nhất không có bệnh. Lúc nào 2 câu đầu cũng đặt Ý ở Thiên Môn vào đỉnh đầu, hai câu sau đặt Ý ra lòng bàn tay trái để chuyền cho người bên trái. Tiếp tục lần thứ hai là năng lượng của người thứ hai chạy qua mình, lần thứ ba là của người thứ ba, ....lần thứ chín là của người thứ chín. Để ý xem lần thứ mấy thì cơ thể mình cảm nhận đưọc cái đau của bệnh nhân.
Thí dụ : lần thứ nhất, không. Lần thứ hai mình cảm nhận thoáng qua răng trên bên trái đau, lần thứ ba, thứ tư, không. Lần thứ năm đau đầu gốt trái, lần thứ sáu nhức đầu. Lầnb thứ bảy, tám, không. Lần thứ chín đau bụng...Mình đi kiểm chứng lại bằng cách hỏi những người đó xem có đúng như vậy không.
Mọi người đều kiểm chứng kết qủa giống nhau thì mình đã có thể khám bệnh tập thể được. Những người có bệnh không cần chữa riêng, mà cứ tiếp tục niệm Phật chung và truyền năng lượng chung 10-20 lần thì tất cả các cảm nhận lúc trước từ những người bệnh đều biến mất.
5-Tập thông trục Thiên Môn- Chẩm-Ấn :
Trục Chẩm-Ấn là một đường thẳng tưởng tượng từ sau đầu vùng huyệt Ngọc Chẩm xuyên ra phía trước giữa hai đầu mày huyệt Ấn Đường. Trên đường thẳng này có một điểm tưởng tượng là nơi ngã ba thẳng góc lên Thiên Môn.
Khi nghe CD niệm Phật để luyện tập bằng Ý và hơi thở. Cuốn lưỡi, nhắm mắt. Hai câu niệm Phật đầu nhận Phật Quang vào Thiên Môn xuống sâu đụng đền điểm ngã ba trục Chẩm-Ấn thì ngưng, chờ hai câu niệm Phật sau thì thở ra cho ý phóng ra khỏi huyệt Ấn Đường. Tập nhiều lần theo CD.
Sau đó tập ngược lại, cho Ý dẫn Phật Quang vào Ấn Đường theo hơi thở vào đến điểm ngã ba thì ngưng, thở ra ý dẫn khí phóng ra ngoài Thiên Môn lên trời. Tập nhiều lần.
Tối đi ngủ, nhắm mắt, cuốn lưỡi ngậm miệnh, thở bằng mũi bình thường. Không niệm theo CD. Chỉ cần tưởng tượng đang nhìn vào giữa trán nơi huyệt Ấn Đường không rời, từ từ có cảm giác như con mắt mình bị che phủ hàng trăm lớp màng, nên không nhìn thấy gì, nhưng từ từ các lớp màng được lột mỏng dần thấy hơi sáng, cho đến một ngày nào đó, nó nhìn thấy trước mắt có một buồng sáng nhìn rõ mọi vật, gọi là mở màn hình, lúc đó nhìn thấy con mắt của mình rồi thấy hẳn khuôn mặt mình, lâu dần nó quen với mình, biết nhìn, biết nói, biết nhận xét công việc mình làm đúng sai.
Sau đó bất cứ lúc đi ngủ hay lúc thức đang làm việc, chỉ cần tĩnh tâm nhắm mắt thì màn hình được mở ra thấy được linh ảnh, biến cố tốt xấu có thể xảy ra cho mình hay cho người mà mình để tâm ý suy nghĩ đến, người ta gọi là giác quan thứ sáu.
6-Phóng năng lượng bằng mắt .
a-Cũng ngồi vòng tròn để tập chung theo CD niệm Phật, nhưng niệm bằng Ý, cuốn lưỡi ngậm miệng, mắt mở, tưởng tượng hai câu đầu Phật Quang vào đỉnh đầu đụng đến điểm ngã ba trục Chẩm Ấn khi đang hít vào. Khi thở ra theo hai câu niệm Phật sau thì tưởng tượng phóng khí ra tử Ấn Đường, nơi con mắt thứ ba cùng lúc với mắt thật nhìn từ bàn tay bên trái của mình lướt nhanh qua từng bàn tay mọi người theo vòng thuận kim đổng hồ trở về đến bàn tay bên phải của mình trong khoảng cùng thời gian vận tốc niệm 2 câu sau.
b-Muốn tăng lực truyền năng lượng bằng mắt cho mạnh hơn thì nghe CD cho 4 câu hít vào từ Thiên Môn đến ngã ba trục Chẩm-Ấn , thở ra chậm theo tốc độ 4 câu, quét mắt đảo một vòng từ bàn tay trái sang bàn tay phải.
c-Muốn biết người nào trong lúc tập có tiến bộ, thì mọi người ngồi tĩnh tâm, cuốn lưỡi ngậm miệng nhắm mắt, chỉ để một người truyền năng lượng từ 5-10 lần xong, thì hỏi lại những người khác về cảm nhận thấy gì ?
Nếu mọi người đều trả lời giống nhau như có dòng điện từ trường, nhiệt điện, khí chạy vòng từ trái sang phải, như vậy là người đó đã có khả năng phóng truyền năng lượng.
d-Đến giai đoạn truyền theo tốc độ, thí dụ như người truyền đã phóng năng lượng đưọc 10 vòng tròn, sau khi hỏi lại mọi người đều trả lời đúng 10, thì đây là cách tập tăng cảm giác của thính giác.
e-Khi không có CD niệm Phật, thì chỉ cần dùng Ý trong đầu A-Di-Đả-Phật chậm khi hít vào từ Thiên Môn đến điểm ngã ba trục Chẩm-Ấn, nhưng khi hơi thở phóng ra Ấn Đường thì dùng mắt dảo nhiều vòng cho đến khí Phật Quang theo hơi thở ra hết, lại hít Phật Quang vào phóng ra nhiều vòng tiếp, liên tiếp nhiều lần đừng qúa nhanh, đừng qúa chậm. Sau đó hỏi lại mọi người đã nhận được bao nhiêu vòng, nếu chính xác đúng như số vòng mình đã phóng ra, thì cả người phóng lẫn người nhận đều có tiến bộ.
f-Nếu có người thuộc trình độ cao hơn, muốn thử xem một thầy đang phóng năng lượng theo vòng tròn mà mọi ngưới trong vòng đều đang cảm nhận vòng năng lượng đang được truyền, tự nhiên ngưng không thấy cảm nhận gì. Đều đó có nghĩa là thầy có trình độ cao đang phóng năng lượng
Với thói quen này thì người phóng khi bước vào phòng khám mà các bệnh nhân đang ngồi chờ đợi, chỉ cần phóng lướt một vòng sẽ biết ai bệnh nặng hơn cần được chữa trước.
Ngay cả khi không cần phóng, quanh mình đã được bảo vệ bằng vòng hào quang từ bi, khi bước vào phòng tự nhiên có cản giác khí trược từ một bệnh nhân nặng chạm đến vòng hào quang của mình, mình cảm thấy nhói trong tạng phủ mình, mnhư nhói đau thoáng quan như ở gan, bao tử phổi, thận, ruột....
7-Phóng năng lượng bằng Ý để chữa bệnh đường xa.
Khi những người tập ngồi vòng tròn, còn mình đứng ngoài mà vẫn phóng năng lượng bằng mắt đảo nhiều vòng, mọi người đều nhận bắt được. Thì bắt đầu chuyển sang cách tập phóng năng lượng bằng Ý. Cuốn lưỡi ngậm miệng nhắm mắt, cứ tưởng tượng mọi người đang ngồi vòng tròn trước mình, mình cứ phóng tưởng tượng vòng tròn trước mặt nhiều vòng. Sau đ1o hỏi lại mọi người để biết kết qủa.
Mìng có thể phóng thuận chiều, rồi nghịch chiều rồi thuận chiều, rồi hỏi mọi người kết qủa, nếu họ trả lời đúng thì cả người phóng lẫn người nhận cũng đã tiến bộ có vòng hào quang từ trường bao quang mình.
Sau dó, mình đi sang phòng khác, tập phóng năng lượng vào mọi người bằng Ý khi nhắm mắt, sau đó kiểm chứng lại với mọi người đều trả lời đúng số lần họ nhận đưọc.
Khi đêm ngủ, thử kiểm chứng khả năng của mình với 2-3 ngưòi bạn cùng trình độ với mình, hẹn giờ cùng phóng năng lượng cho nhau, phóng bao nhiêu lần, phóng vào điểm nào... Ngày hôm sau hỏi lại để kiểm chứng thấy đúng là có tiến bộ.
Cũng phương pháp này, ban ngày chữa cho một bệnh nhân. Tối ngủ tập phóng năng lượng vào bệnh nhân xem bệnh nhân thoát ra tà khí hay hút nhận năng lượng của mình vào một bộ phận nào, vào nhiều hay ít...mỗi ngày mỗi cho năng lượng vào bệnh nhân, cho đến khi thấy mình cho năng lượng mà cơ thể họ không cần hút vào nửa, thấy hình ảnh bệnh nhân mặt hồng hào khỏe ra thì mình tìm gặp để kiểm chứng điều đó có đúng sự thật không.
8-Tập phóng nhận năng lượng bằng bàn tay dương để dò khám bệnh như bàn tay scan.
Có thể dùng bàn tay dương dò tìm bệnh trên một bệnh nhân, hay đưa bàn tay như một máy chụp hình trước một nhóm người rà quét qua quét lại từng người để tìm xem ai bị bệnh nặng hay nhẹ ra sao.
Phải luôn để ý việc cảm nhận để xác định bệnh lúc nào cũng phải phân tích cảm giác hàn-nhiệt, hư-thực, lực hút hay đẩy, lành hay độc, nặng hay nhẹ. Sau đó kiểm chứng lại bằng dụng cụ y khoa là máy đo áp huyết, máy đo đường, nhiệt kế, oxymeter...
PHẦN THỰC HÀNH CHỮA BỆNH :
Áp dụng cách đặt bàn tay chữa nhiều loại bệnh khác nhau theo tài liệu KCYĐ từ trang 207 đến trang 244. Nhưng không chữa bằng KCYĐ mà chữa bằng Khí Công Tịnh Độ niệm A Di Đà Phật bằng ý khi nạp năng lượng và phóng truyền năng lượng hay thu rút tà khí trược hàn nhiệt trong cơ thể bệnh nhân.