Thứ Tư, 7 tháng 4, 2010

078 – Hỏi cách chữa và phòng ngừa bệnh moyamoya, tắc huyết mạch não gây biến chứng tê liệt.


Tôi năm nay 56 tuổi ở nước Pháp, tình trạng bịnh của tôi là: đang bình thường tự dưng cảm thấy hơi u ở màng tang bên phải, tôi liền lấy tay xoa nhe, rồi khỏang 5 phút sau tôi cảm giác yếu dần rồi quị từ từ xuống, lúc đó miệng bị giựt méo, tiếng nói hơi khác thường, tay trái, chân trái không giở lên được, sau 10 phút thì xe cứu thương đến, để tôi nằm ngay ngắn dứơi đất và khiêng tôi lên brancard để chở vào bệnh viện cấp cứu, nhưng trong lúc giở người tôi lên brancard thì cơ thể của tôi lại trở lại bình thường, tay chân giở lên được và miệng trở lại như lúc đầu, tiếng nói củng vậy. Xong xe cứu thương vẫn chở tôi vào bệnh viện để kiểm tra, kết quả xét nghiệm :

- máu mở không có

- máu đường không có

- kiểm tra tim mạch không có gì

- scanner thì củng không có bể mạch máu hoạc nghet mạch máu.

Rồi khoảng một tháng rưởi sau thì đi chụp IRM não thì tìm ra bệnh có tên là MOYA MOYA. Hình chụp cho thấy mạch máu phía bên phải mờ hơn phía bên trái và Bác sỉ chẫn đoán bệnh này là làm cho mạch máu nảo nó teo dần đi.

Vậy tôi kính xin hỏi thầy, vói bệnh trạng của tôi thì có cách nào chữa, làm ngăn chặn được mạch máu trong nảo phía bên phải của tôi không bị teo dần lại .

câu hỏi thứ 2 :

Sau khi xảy ra bệnh thì tôi đi đứng không được bình thường, Chân đi hay bị vấp, đôi lúc thấy mỏi muốn sụm, lúc đó mặt xanh và đầu thì hơi bần thần, mệt mỏi.Tension thi có lúc cao và thấp, bác sỉ có cho tôi uống thuốc làm hạ tension và thuốc aspirine cho máu huyết.

Tôi đả kể hết bịnh trạng rỏ ràng để thầy dể chẩn đoán và kính xin thầy hướng dẩn cách trị liệu.

tructuong



Chứng bệnh này tây y mới khám ra gọi là hội chứng Moyamoya syndrome, tiếng Nhật gọi là phun khói xì gà, vì chụp X-quang thấy mạch máu não bị mờ.

Thực ra, bệnh này theo đông y đều do nguyên nhân thiếu máu não, mọi người cũng có thể tự kiểm chứng được bằng máy đo áp huyết ở nhà, và so sánh theo bảng tiêu chuẩn áp huyết theo loại tuổi theo kinh nghiệm của khí công y đạo như sau :

95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.

110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên

120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên

130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên

A-Cách chẩn đoán tìm ra bệnh thiếu máu :

a-Trường hợp thứ nhất :

Nếu một người ở lứa tuổi lão niên hay trung niên mà lúc nào cũng có áp huyết đo ở hai tay có số đo ở tuổi thiếu nhi, thì chắc chắn máu não thiếu, sẽ có nhiều bệnh nan y, bệnh nhẹ thì thường bị chóng mặt, xây xẩm, hoa mắt, đau nhức cổ gáy, nặng hơn thì sẽ bị ung thư nội tạng, nặng nhất là ung thư máu. Thời gian diễn tiến của bệnh, nếu số đo áp huyết ở tuổi thiếu nhi, mà mình đang ở lứa tuổi thiếu nhi thì không có bệnh, nhưng sang tuổi thiếu niến, mà áp huyết vẫn ở tuổi thiếu nhi, khi đi học hay chóng mặt mệt mỏi, sức khỏe kém, nếu sang tuổi thanh niên mà vẫn có số đo áp huyết ở tuổi thiếu nhi, sức khỏe mệt mỏi hơn, chóng mặt xây xẩm nhiều hơn, biến chứng bệnh nhiều hơn, ví như khi cây còn bé tí, mỗi ngày tưới 1 ly nước là đủ, cây vẫn phát triển, khi cây lớn hơn, vẫn tưới 1 ly nước thì cây từ từ thiếu sự sống, ống nhựa teo lại, phát triển chậm, nhưng tây y chưa tìm ra bệnh. Khi con người ở vào tuổi trung niên giống như cây lớn nhưng nước tưới cây vẫn là 1 ly, thì cây sẽ hết nhựa sống, lộ ra dấu hiệu bệnh, lá bị sâu khô héo rụng, cành khô gẫy, không ra hoa trái, rễ khô nước, không hút được chất bổ nuôi cây, thân cây sẽ mọc bướu, con người ở tuổi trung niên mà thiếu khí huyết, áp huyết thấp bằng với tuổi thiếu nhi, cũng sẽ lộ ra nhiều dấu hiệu bệnh, các ống máu co rút nhỏ lại làm tắc nghẽn lưu thông của khí huyết, làm chóng mặt, mệt mỏi, hay quên, làm vìệc không có sức, kém ăn, mất ngủ, đau nhức, bệnh moyamoya nằm trong trường hợp này.

b-Trường hợp thứ hai :

Bệnh nhẹ hơn là migrain thiên đầu thống do áp huyết thấp chỉ ở một bên tay, có số đo ở tuổi thiếu nhi, còn tay bên kia có số đo ở tuổi thanh niên. Nếu không chữa cho áp huyết hai lên bằng nhau, khi đến tuổi trung niên, bên có áp huyết thấp vẫn ở tuổi thiếu nhi, và bên kia cao hơn ở tuổi thiếu niên, ống mạch máu não không đủ máu nuôi não, chụp X-quang thấy khối mờ, hình thành khối u mà mình không biết, đến khi tự nhiên té ngã, vào bệnh viện mới phát hiện ung thư sọ não. Bệnh moyamoya cũng nằm trong trường hợp này.

c-Trường hợp thứ ba :

Khi lớn ở tuổi thanh niên, có ăn uống tẩm bổ, có tập thể dục thể thao, áp huyết có tăng lên, nhưng vẫn thấp so với lứa tuổi thanh niên, nhưng những ống máu đã bị teo lại. Nên đến tuổi trung niên, vẫn có áp huyết bên thấp bên cao, mặc dù nếu có bệnh áp huyết cao hơn với lứa tuổi ở một bên tay trái ở tuổi lão niên, tay phải có số đo ở tuổi thiếu nhi, sẽ có dấu hiệu đau nửa bên đầu bên phải, tai phải ù, tay chân phải yếu, theo đông y, những ống máu dẫn lên não bị tắc ở ba huyệt Ế Phong, Phong Phủ và Phong trì bên phải. Nếu không giải 3 huyệt này để cho khí huyết thông lên nuôi não làm cho áp huyết chia đều hai bên đầu, thì dù có uống thuốc gì cũng chỉ là chữa ngọn. Khi ăn uống tẩm bổ, khí huyết dư thừa làm áp huyết tăng cao hơn tuổi lão niên trên 140/90mmHg mạch 70-80, khi tây y đo áp huyết bên tay trái, sẽ kết luận bệnh nhân có bệnh cao áp huyết, nhưng ống dẫn máu lên não bên phải bị hẹp khí huyết không lên được, tây y mới gọi bệnh moyamoya là bệnh di truyền, vì không cải thiện được ống mạch. Thật ra không phải do di truyền.

d-Cách tìm bệnh thiếu máu bằng máy đo áp huyết :

Có hai số đo áp huyết để biết cơ thể có bệnh thiếu máu, mà tây y không phát hiện ra :

Ở tuổi trung niên có áp huyết bằng tuổi trung niên, nhưng có mạch tim đập nhanh 100, thay vì cơ thể sẽ bị nhiệt, nóng sốt, trong người có virus hay vi trùng xâm nhập, nhưng tìm không ra nhiễm trùng, ngược lại mạch đập nhanh, mà chân tay lạnh, đây là áp huyết giả, nhịp tim phải đập nhanh hơn 25 nhịp, hơn tiêu chuẩn 75, mới đủ đẩy máu đi và về tim, như vậy áp huyết thật sẽ là 130 trừ đi 25, trở thành áp huyết ở tuổi thiếu nhi 105.

Ở tuổi trung niên có áp huyết ở tuổi thiếu niên, mạch tim đập rất chậm khoảng 60-65 là bệnh thiếu máu bẩm sinh, cũng dẫn đến bệnh ung thư nội tạng, bệnh nặng nhất là ung thư máu thuộc bệnh mãn tính, tủy bất sản không sản sinh ra tế bào máu. Còn thông thường, ở tuổi trung niên có áp huyết thiếu nhi, nhưng mạch ở tuổi trung niên, bỗng nhiên chân tay lạnh, nhịp tim đập nhanh hơn 100-120, lúc đó trở thành ung thư máu cấp tính.

e-Thiếu máu cục bộ do tắc nghẽn :

Trường hợp này là cao áp huyết, một bên tay có số đo khoảng 140-150/80-95mmHg mạch 70-80, tay kia có số đo 120-130/80mmHg mạch 70-75, nhưng bị rối loạn áp huyết khi cao khi thấp, hai bên tay không đều, do máu vón cục trong ống máu dẫn lên đầu, nên có triệu chứng khi bị chóng mặt, khi bị nhức đầu, đi lảo đảo một bên. Tây y không đo áp huyết bên tay phải nên không thể biết để chẩn đoán ra hai loại bệnh khác nhau :

Bệnh rối loạn tiền đình vừa do rối loạn áp huyết vừa bị ù tai, chóng mặt xây xâm, đi lảo đảo một bên, tây y gọi là bệnh virus trong tai, giải pháp là phải mổ tai, chỉ là chữa ngọn, bệnh rối loạn áp huyết vẫn còn.

Bệnh rối loạn áp huyết, bên tay có áp huyết cao thì đầu ngón tay và bàn tay nóng ấm, nhưng bên tay áp huyết thấp, đầu ngón tay tê lạnh, đau cổ gáy vai. Tây y chẩn đoán và chụp xương cổ gáy lưng, tìm ra đủ thứ bệnh mang tên khác nhau như thoái hóa xương cổ, bệnh Mal Formation Chiari và cho rằng nếu không mổ sẽ bị tê liệt... đó là chữa ngọn, bệnh rối loạn và cao áp huyết vẫn còn, chữa gốc là phải làm cho hạ áp huyết cho hai bên tay xuống bằng nhau, thì ngón tay hết tê lạnh, hai bàn tay ấm nóng như nhau.

B-Cách chữa theo Tinh-Khí-Thần :

Tinh :

Cần uống thuốc sirop bổ máu Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin), pha 2 muổng canh sirop với 1 ly nước nóng, uống trước mỗi bữa ăn 5 phút. Uống đều đặn và đo áp huyết để theo dõi mỗi ngày, đến khi áp huyết lên đến 130/80mmHg mạch 70-80 thì ngưng.

Kiêng ăn những chất chua, hàn lạnh, sẽ làm hạ áp huyết, như cam, chanh, bưởi, yaout, dưa chua, dưa leo, khổ qua. tây y cho hạ áp huyết bên tay trái sẽ làm tụt thêm áp huyết bên tay phải, khiến bệnh nặng thêm, aspirine cũng là chất chua và cũng là chất làm hạ áp huyết. Nên ăn những chất ấm, nóng, cay, như gừng, bổ bao tử, phế, và tiêu để bổ ấm thận.

Khí :

Tập bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần làm tăng áp huyết. Bài Cúi Ngửa 4 Nhịp 20 lần làm khí huyết lên nuôi bộ não. Nằm Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần để làm mạnh thận, gan, bao tử, giúp tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành chất bổ. Bài Vỗ Tay 4 Nhịp 200 lần làm tăng cường hồng cầu, oxy, để duy trì công thức máu Oxyde sắt tam Fe2O3, nếu không đủ oxy, máu đỏ sẽ biến thành máu đen oxyde sắt nhị Fe2O2, nếu cơ thể thiếu oxy nữa thì công thức máu bị phá vỡ chỉ còn lại chất sắt Fe2, da xanh đen, máu khô đặc, các dây thần kinh teo chết dần.

Dùng 2 ngón tay cái bấm vào huyệt Ế Phong, hõm sau tai đẩy lên cảm thấy đau, giữ nguyên 30-60 giây, cảm thấy đầu nóng, mặt đỏ hồng, trán nóng, tai nghe rõ, mắt sáng, mũi thông. Trước khi bấm huyệt đo áp huyết, sau khi bấm huyệt, đo lại áp huyết sẽ thấy áp huyết lên.

Có thể chữa bằng cách bấm huyệt theo Hà Đồ Lạc Thư, chỉnh thần kinh và kích thích máu lên đầu thông các ống mạch máu trên đầu. (hình đính kèm)

Thần :

a-Khi đo áp huyết thấp, trán lạnh, tập thở Đan Điền Thần, nữ đặt bàn tay phải trên mỏm xương ức nơi Đan Điền Thần, tay trái đặt chồng lên trên, nhắm mắt, cuốn lưỡi, ngậm miệng, thở bằng mũi bình thường, không chú ý đến hơi thở, chỉ cần nằm nghe bụng đang phồng lên-xẹp xuống theo hơi thở ra vào, cho đến khi khí huyết trong bụng chuyển động từ bụng trên xuống bụng dưới, bụng mềm, ấm nóng, bàn tay ấm nóng rịn mồ hôi, là tập đúng, lúc đó sẽ rơi vào giấc ngủ sâu, để cơ thể tự điều chỉnh cho hết bệnh tật. Bài này làm tăng áp huyết, tăng thân nhiệt, oxy và hồng cầu, an thần, ngủ ngon.

b-Khi đo áp huyết cao, trán nóng, tập thở Đan Điền Tinh, nữ đặt bàn tay trái dưới rốn 5cm nơi huyệt Khí Hải Đan Điền Tinh, bàn tay phải đặt chồng lên trên, cuốn lưỡi, ngậm miệng, thở bằng mũi bình thường, không chú ý đến hơi thở, chỉ cần nằm nghe bụng đang phồng lên-xẹp xuống theo hơi thở ra vào, cho đến khi khí huyết trong bụng chuyển động từ bụng trên xuống bụng dưới, bụng mềm, ấm nóng, bàn tay ấm nóng rịn mồ hôi, là tập đúng, lúc đó sẽ rơi vào giấc ngủ sâu, để cơ thể tự điều chỉnh cho hết bệnh tật. Bài này làm hạ áp huyết, trán mát, an thần, ngủ ngon.

c- Áp huyết hai tay cao nhưng không đều, tập thở Mệnh Môn. Nữ, bàn tay phải đặt ở Đan Điền Thần, bàn tay trái đặt ở Đan Điền Tinh, nhưng ý trụ ở huyệt Mệnh Môn, sau lưng giữa cột sống, đối xứng với rốn, nhắm mắt, cuốn lưỡi, ngậm miệng, thở bằng mũi tự nhiên, chi cần theo dõi khí huyết chạy qua huyệt Mệnh Môn như thế nào, cảm thấy nơi đó ấm nóng, có luồng khí chạy lên cột sống hay chạy xuống dưới chân, chỉ cần biết khí ở Mệnh Môn chạy lên hay xuống, chứ không theo dõi nó chạy đi đến đâu, mục đích chỉ cần chú ý một điểm Mệnh Môn cho nóng ấm, để giúp thận thủy chuyến hóa thành thận khí, tức là đã đưa sức nóng của tâm hỏa vào thận, gọi là điều chỉnh thủy-hỏa, áp huyết sẽ đều và ổn định ở mức 120-130, trở lại tuổi trung niên, giúp cơ thể chậm lão hóa, chữa được bệnh mất trí nhớ, hay đi tiểu đêm, trục trặc đường tiểu, yếu thận.

Đối với phương pháp tự chữa bệnh của môn Khí Công Y Đạo, là một phần của ngành Y Học Bổ Sung, theo khí công, máy đo áp huyết chính là bác sĩ trong gia đình, cần phải đo để theo dõi bệnh tình mỗi ngày sau khi ăn uống và tập luyện khí công, khi áp huyết ổn định, ăn ngủ ngon, cơ thể cảm thấy khỏe mạnh, da thịt hồng hào, trẻ lại, là cơ thể đã hết bệnh, cho nên ông bà chúng ta thường nói : Ăn được ngủ được là tiên. Không ăn, không ngủ, mất tiền thêm lo.

Còn đối với tây y, bệnh này do nghẽn tắc động mạch cảnh nội bộ, mà đi từ cổ đến vòng Willis bên trong hộp sọ ngay dưới não. Tại vòng của Willis, các động mạch cảnh nội bộ chảy vào động mạch não giữa, đang tiếp tục vào trong não, và các động mạch não phía trước, là một phần của vòng của Willis. Moyamoya bệnh thường kéo dài đến giữa và phía trước động mạch não.

Sự tắc nghẽn của các động mạch ở bệnh Moyamoya không giống như tắc nghẽn trong xơ vữa động mạch. Trong xơ vữa động mạch, lớp bên trong (lumen) của các động mạch bị một phản ứng miễn dịch, điền vào với các tế bào viêm, và tích tụ các tế bào béo và mảnh vụn. Trong Moyamoya, lớp bên trong của động mạch cảnh lấn vào phía trong động mạch co lại, và động mạch cũng đầy với các cục máu đông, gây đột quỵ.

Thuốc như antiplatelet (ví dụ như aspirin) thường được đưa ra để ngăn ngừa tạ m thời chống máu đông. Nhưng phẫu thuật thường được khuyến khích hơn.

Kể từ khi Moyamoya có xu hướng chỉ ảnh hưởng đến động mạch cảnh nội bộ và các phần gần đó của phía trước liền kề và động mạch não giữa, theo tây y cần phải phẫu thuật các động mạch, là một trong hai khâu lưu thông trực tiếp vào não, hoặc đặt trên bề mặt của não bộ để tái lập lưu thông mới.

Tuy đã phẫu thuật, theo thống kê, vẫn có nguy cơ 4% đột quỵ sớm (30 ngày) sau khi phẫu thuật, và có một xác suất 96% còn lại bị đột quỵ trong vòng 5 năm tiếp theo. Như vậy chữa theo tây y cũng chỉ tạm thời chữa ở ngọn, chưa tìm ra gốc bệnh để những năm sau không bị ảnh hưởng làm tái phát bệnh.

Thân

doducngoc

(Đính kèm hình huyệt và bài công dụng của thuốc Đương Quy Tửu)

Những bệnh có thể uống được thuốc bổ máu Đương Quy Tửu (Tankwe gin)

Tác giả: DoDucNgoc

Những bệnh thuộc hư chứng, tây xét xét nghiệm tìm không ra bệnh, nguyên nhân do thiếu khí huyết trầm trọng, áp huyết rất thấp dưới 90/65mmHg, mạch có thể nhanh hay chậm, dễ bị tây y chẩn đoán lầm thành bệnh thần kinh, bệnh si khờ, điên, mất trí nhớ, tê bại liệt, ung thư tử cung, ung thư bao tử, ung thư não, không đủ sức làm việc, hay mệt mỏi, hoa mắt, mắt tối xầm

tự nhiên té ngã, chân tay yếu đi hay bị té ngã .Những triệu chứng đó tây y chữa ngọn dưới nhiều tên bệnh khác nhau, nhưng đông y chữa vào gốc bệnh thiếu khí huyết, cần phải bổ khí huyết, khi áp huyết lên được 120-130/75-85mmHg, mạch tim trở lại bình thường 70-80 là khỏi bệnh.

Ngoài phương pháp tập động công, tĩnh công thiền, đông y cho dùng thuốc bổ khí huyết gọi là đương quy tửu những triệu chứng bệnh thuộc ngọn kể trên đều dứt hẳn

Cách dùng : Thuốc sirop có bán tại các tiệm thuốc bắc dưới tên thương mại là Tankwe gin .Ngày uống 3 lần, sáng, trưa, tối, mỗi lần 1-2 muổng canh với nước ấm. Uống đến khi hết những triệu chứng bệnh và áp huyết được 120-130mmHg thì ngưng, không cần phải uống đến suốt đời..

Đương Quy Tửu (TANKWE GIN, TANGKWEI GIN)

Thành phần :

Đương Quy (Angelicae sinensis)

Xuyên Khung (Rhizoma Chuanxiong)

Thục địa (Rehmanea)

Bạch Thược (Paeoniae Alba)

Đảng Sâm (Codonopsis Pilosulae)

Hoàng Kỳ (Astragali)

Phục Linh (Poria)

Cam Thảo (Glycyrrrhizae(Pyro)

Mật Ong (Honey)

Ở những tiệm thuốc bắc địa phương không có bán loại pha chế sẵn, chúng ta có thể cắt thuốc thang về nhà sắc uống từng

thang mỗi ngày theo phân lượng sau :

Đương Quy 12g

Xuyên Khung 12g

Thục địa 12g

Bạch Thược 8g

Đảng Sâm 8g

Hoàng Kỳ 8g

Phục Linh 8g

Cam Thảo 8g

Nước thứ nhất đổ 4 chén nước sắc cạn còn 1 chén , nước thứ hai, đổ 3 chén sắc cạn còn 1 chén. Hai chén hoà chung, chia làm 2 lần, sáng và tối mỗi lần uống 1 chén khi còn nóng ấm.

Ngâm rượu : 5 thang ngâm với 1 lít rượu gạo 40 độ, sau 1 tuần uống được. Sáng và tối, mỗi lần uống 1 muổng canh.

Phụ nữ không uống được rượu nguyên chất thì nấu 5 thang với 1,5 lít nước, khi cạn còn 1 lít, thì đổ thêm 200cc rượu và thêm mật ong vừa đủ ngọt, nấu lại tất cả cho sôi 5 phút rồi lọc lấy nước thuốc cất vào lọ thủy tinh, uống ngày 3 lần, mỗi lần 1 muổng canh.

Công dụng của đương quy :

Phân tích theo Tây y:

Tên khoa học Angelica sinensis. chứa tinh dầu có các hợp chất terpen, phenolic, các chất dẫn phtalid, coumarin, acid hữu cơ vanilic, palmitic, linoleic, nicotimic, sucinic, polysaccharide, các acid amine, vit.B1,B12, E, các nguyên tố Mg, Ca, Al, Cr, Cu, Zn, As, Pb, Cd, Hg, P, Fe, Si, Ni, V, brefedin..Đương quy được phân thành 4 loại : Quy đầu gồm phần đầu của rễ chính, đầu tù và tròn còn mang vết tích của lá. Quy thân là rễ đã loại bỏ phần đầu và đuôi. Quy vĩ là phần rễ phụ hay nhánh.

Toàn đương quy gồm cả rễ cái và rễ phụ.

Đương Quy có tác dụng ức chế sự co thắt cơ trơn ruột, chống thiếu máu ác tính, ức chế trực khuẩn dịch hạch, thương hàn, phế cầu khuẩn, ức chế sự ngưng tập tiểu cầu, có khả năng bảo vệ hệ thống miễn dịch làm tăng lượng tế bào lympho T và phục hồi tái tạo hồng cầu, tăng sức đề kháng, ức chế sự giảm tỷ lệ huyết sắc tố, có khả năng điều trị huyết khối não viêm tắc, tăng cường tuần hoàn não bị ứ máu, chống loạn nhịp tim, tăng hoạt tính thực bào. Rễ đương quy có 2 thành phần: một thành phần không có tinh dầu kích thích tử cung làm tăng lượng AND, tăng lượng tiêu thụ oxy của gan, và tăng năng lượng sử dụng glucose của tử cung, một thành phần có tinh dầu khác ức chế tử cung.

Phân tích theo đông y :

Đương Quy có vị ngọt hơi đắng, hơi cay, có mùi thơm, tính ấm, có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, điều thông kinh, dưỡng gân, tiêu sưng, nhuận trường, dùng để chữa bệnh phụ nữ, dùng làm thuốc bổ chữa bệnh thiếu máu xanh xao, đau đầu, cơ thể gầy yếu, suy tim, mệt mỏi, đau lưng, ngực, bụng, viêm khớp, chân tay đau nhức lạnh, tê bại liệt, táo bón, mụn lở ngứa, ứ huyết, kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh, sa tử cung, chảy máu, làm thuốc giảm đau chống co giật trong bệnh ung thư.

Công dụng của Xuyên Khung :

Phân tích theo Tây y :

Tên thuốc Radix chuanxiong, tên khoa học Lugusticum chuanxiong Hort.. chứa tinh dầu, nhiều phthalid như ligustilid, butylphthalid, butylidenphtalid làm tăng hoạt tính ức chế co bóp chống loạn nhịp tim và động mạch vành, chất ligustrazin ức chế sự kết tập tiểu cầu, có khả năng chuyển dịch Ca2+ khỏi màng tiểu cầu, làm tăng lưu lượng máu trong động mạch vành làm lực co thắt cơ tim, giảm huyết áp động mạch, tăng áp suất tâm thất trái, nhịp tim, làm giãn mao mạch, chữa bệnh tắc nghẽn mạch máu não, tăng khả năng biến dạng củ hồng cầu, phục hồi hình dạng hồng cầu nhanh hơn, làm tăng tính bền vững của hồng cầu, rễ xuyên khung chống đông máu, ức chế các giai đoạn đông máu nội sinh, giảm áp huyết, nhất là huyết áp động mạch phổi khi phổi bị nghẽn mãn tính ,giảm cholesterol, giảm độ nhớt của máu và huyết thanh, co thắt cơ trơn ruột và

có tính lợi tiểu.

Phân tích theo đông y :

Xuyên Khung có vị cay, mùi thơm, tính ấm, vào 3 kinh Can, đởm, tâm bào, lien quan đến bàng quang, màng bao tim, có tác dụng hành khí, điều kinh, hoạt huyết, trừ phong, giảm đau, bổ máu.

Chữa các bệnh nhức đầu, hoa mắt,, cảm, phong thấp đau nhức mỏi, phụ nữ bị rong huyết kéo dài, chữa suy nhược ở người cao tuổi, phụ nữ tiền mãn kinh, rối loạn kinh nguyệt, thiếu máu, đau nhói ngực sườn, viêm đau do chấn thương, khí huyết ứ làm đau đầu, chân tay tê dại đau..

Chống chỉ định : Không dùng dược liệu này trong khi mắc các bệnh xuất huyết và khi kinh nguyệt nhiều, âm hư hỏa vượng không nên dùng..

Công dụng của Thục địa, Sinh địa :

Phân tích theo Tây y:

Thục địa là sinh địa đã sao chế chín, tên gốc là địa hoàng, tên khoa học Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Libosch..Địa hoàng có hoạt tính chặn miễn dịch, hạ đường máu nhờ tác dụng của chất iridoid glycoside A,B,C,D, một mặt kích thích tiết insulin, một mặt giảm glycogen trong gan. Trong Địa hoàng có 3 phenethyl alcohol glycoside có hoạt tính ức chế men aldose reductase để ức chế sự hình thành đục thủy tinh thể gây ra bởi biến chứng của bệnh tiểu đường.

Phân tích theo đông y :

Sinh địa có vị ngọt, đắng, tính mát, vào 4 kinh gan, tim, thận, tiểu trường để bổ âm, thanh nhiệt, sinh huyết dịch, mát máu, cầm máu, chữa chứng bệnh âm hư hỏa vượng, triều nhiệt, khô khát nóng uống nước nhiều, tiểu đường, thiếu máu, xuất huyết nội ngoại, cơ thể suy nhược.

Sinh địa chế chín gọi là Thục điạ có vị ngọt, mùi thơm, tính ấm vào 3 kinh tâm, can, thận, chữa âm hư ở gan thận làm đau nhức lưng gối, chóng mặt ù tai, huyết suy, chứng nóng âm ỉ, cơ thể yếu mệt, ho suyễn, tiêu khát tiểu đường, bổ huyết, bổ thận, sinh tinh, làm sáng mắt đen râu tóc, cơ thể tráng kiện.

Công dụng của Bạch Thược :

Phân tích công dụng của Bạch Thược theo Tây y :

Tên khoa học Paeonia lactiflora Pall., tên khác là Mẫu đơn trắng, chứa hoạt chất paeoniflorin, oxypaeoniflorin, albiflorin, benzoyol paeoniflorin, hợp chất triterpen, flavonoid, có tác dụng kháng khuẩn, kích thích co bóp, kháng cholin, giảm đau, điều kinh.

Phân tích theo đông y :

Bạch thược có vị đắng chua, hơi chát vào 3 kinh can tỳ phế, chữa đau bụng, tả lỵ do ruột co bóp, lưng ngực đau, chân tay nhức mỏi, nhức đầu, hoa mắt, viêm mạch huyết khối, tắc mạch máu não, kinh nguyệt không đều, bế kinh, xích bạch đới, tiểu khó.

Công dụng của Đảng Sâm :

Phân tích theo tây y :

Tên khoa học Codonopsis javanica (Blume) Hook.f. Rễ có đường, chất béo, không có saponin, người ta chiết xuất được triterpenglucoside và đặc biệt là các polysaccharide có tác dụng lên hệ miễn dịch, chống viêm, tăng chức năng tủy xương sinh sản tế bào có hoạt tính miễn dịch và dưỡng bào, tăng hồng cầu, giảm bạch cầu, hạ áp huyết ngoại vi và ức chế tác dụng gây tăng áp huyết của adrenalin.

Phân tích theo đông y :

Rễ đảng sâm có vị ngọt, tính bình, có tác dụng chữa tỳ vị suy nhược, phế khí kém, biếng ăn, đại tiện lỏng, thiếu máu, vàng da, tăng bạch cầu, viêm thận, nước tiểu có albumin, chân phù đau.

Công dụng của Hoàng Kỳ :

Phân tích theo Tây y:

Tên khoa học Astragalus membranaceus (Fisch. ) Bunge. Chứa chất polysaccharide giúp tăng hoạt tính interleukin-2 làm tăng thực bào của hệ lưới nội môi và tế bào đa nhân thuộc hệ thống miễn dịch, sinh thêm tế bào và duy trì tuổi thọ tế bào, là loại thuốc hồi dương, giúp tim co bóp bình thường trong trường hợp suy tim, vừa làm giãn mạch tim và mạch thận khiến áp huyết

hạ và giúp máu qua thận nhiều hơn vừa bảo vệ mạch không vỡ do chiếu tia X-quang, tăng sự thẩm thấu của huyết tương qua thành mạch. Chất Saponin astramembrannin làm tăng sinh tổng hợp ADN trong gan và trong qúa trình tái sinh gan khi gan bị cắt, ngăn ngừa sự giảm glycogen, có tính kháng khuẩn, trực khuẩn, liên cầu khuẩn, tụ cầu vàng, phế cầu.

Phân tích theo đông y :

Hoàng kỳ có vị ngọt, tính ôn vào 2 kinh phế tỳ, bổ khí, thăng dương, liễm hãm, lợi tiểu, giải độc, chữa thận hư, viêm thận

tiểu cầu mãn tính, đái tháo đường, đái đục, phong thấp, đau xương.

Công dụng của Phục linh :

Phân tích theo Tây y :

Tên khoa học Poria cocos Wolf, có chứa hoạt chất Polysaccharide, Pachymaran có tính chất kháng ung thư mạnh, các acid pinicolic, poriatin, adenine, ergosterol, cholin, lecithin, cephalin, histamine, histidin, sucrose, fructose, protease, dầu béo, muối vô cơ, tác dụng lợi tiểu, chống nôn, kháng khuẩn, kháng estrogen, chữa phù thủy thủng, tiêu chảy kéo dài, chữa ung thư bảo vệ tủy xương, cải thiện chức năng gan thận, tăng sức tăng cân, tăng thị lực, tăng cường miễn dịch, tác dụng an thần, chống loét bao tử, hạ đường huyết và bảo vệ gan.

Phân tích theo đông y :

Phục linh vị ngọt nhạt, tính bình, vào các kinh tâm, phế, thận, tỳ, vị, có tác dụng lợi thủy, thẩm thấp, kiện tỳ, định tâm an thần. Chữa suy nhược, chóng mặt, di mộng tinh, lợi tiểu chữa phù thủy thủng, bụng trướng, tiêu chảy, tỳ hư kém ăn, mất ngủ.

Công dụng của Cam Thảo

Phân tích theo Tây y:

Có hai loại mang tên khoa học Glycyrrhiza uralensis Fisch. và G. glabra L. Chứa 4-6% chất vô cơ carbohydrat ( glucose và saccharose ), 3-5% manitol, tinh bột 25-30%, lipid 0,5-1%, asparagin 2-4%, nhựa 5%, có độ ngọt gấp 60 lần saccharose, nếu phối hợp với mía độ ngọt có thể tăng gấp 100 lần. Glycyrhizin gồm có 2 phân tử acid glucuronic và 1 phân tử acid glycyrhetic cấu tạo gần giống như cortisone có nhiều đồng phân chữa được bệnh Addison, có tác dụng chuyển hóa các chất điện giải, giữ natri và clorid trong cơ thể làm tăng áp huyết, giúp sự bài tiết kali. Ở trong cây, glycyrhizin tồn tại ở dạng muối Ca và Mg. Cam thảo có tác dụng gây trấn tĩnh, ức chế thần kinh trung ương, giảm thể nhiệt, giảm hô hấp, giảm ho, giải co thắt cơ trơn, chữa loét đường tiêu hóa bao tử và ruột, bảo vệ gan khi bị viêm gan, tăng tiết mật, chống dị ứng, giải độc

mạnh đối với độc tố của bạch cầu, của cá, của nọc rắn, của strychnine, của uốn ván, của cocain và chlorat hydrate. Cam thảo dùng chung với cortisone làm giảm tác dụng của cortisone.

Phân tích theo đông y :

Rễ cam thảo bắc vị ngọt, tính bình, để sống có tác dụng giải độc, tả hỏa, chích cam thảo loại tẩm mật sao vàng có tác dụng ôn trung, nhuận phế, điều hòa các vị thuốc. Riêng cam thảo chữa cảm ho, mất tiếng, viêm họng, mụn nhọt, đau bao tử, ỉa chảy, ngộ độc. Chích cam thảo bổ tỳ vị hư nhược, ỉa lỏng, thân thể mệt mỏi, kém ăn.

Chất Cam thảo và mật ong là 2 chất dùng làm tá dược để trung hòa hóa giải những phản ứng mâu thuẫn gây bất lợi của thuốc đối với bệnh nhân, và giúp thuốc tăng hiệu năng chữa bệnh trong một bài thuốc chiến lược của đông y gồm đầy đủ thành phần chính phụ là Quân, thần, tá, sứ.

-----------------------------------------------------------------------

Nhận xét về hiệu năng của thuốc từ một bệnh nhân :

Thầy ơi, con đã khỏi nhức đầu rồi. Con uống Tankwe Gin xong bình thứ hai thì hết nhức đầu tuy thỉnh thoảng tự nhiên đầu lại nặng một chút (khoảng vài ba phút). Con vẫn tiếp tục uống thuốc (hôm nay là bình thuốc thứ 6). Kỳ kinh vừa qua con chỉ đau bụng sơ sơ, chứng buốt lưng, đau lưng không thấy xuất hiện, còn nhức đầu thì không còn nữa. Con không ngờ thuốc ta lại chữa hay hơn thuốc tây. Trước khi nhờ thầy, con thường xuyên uống tylenol và có đi bác sỹ xin thuốc chữa nhức đầu (loại nặng) để uống. Nhưng con uống thuốc chữa nhức đầu không khỏi, chỉ thấy người say xẫm mà đau đầu vẫn cứ đau đầu.

Nhờ trời phụ hộ cho con gặp thầy chẩn bệnh đúng cho thuốc chữa dứt căn bệnh nhức đầu. Nếu không may mắn gặp thầy, con không biết là con có thể cầm cự được bao lâu vì càng ngày căn bệnh nhức đầu của con càng bất trị và càng nặng (kỳ nhức đầu vừa rồi, nó đã chạy xuống tới mũi).

Con chẳng biết nói gì hơn, xin thầy nhận nơi đây lòng biết ơn của con.

Cầu trời luôn phù hộ cho thầy và gia quyến luôn bình an, mạnh khỏe.

Kính

con

JC

--------------------------------------------------------------------

clip_image001Huyệt Ế Phong

----------------------------------------------------------------------

HÀ Đ LC THƯ

DAY HUYT CHA ĐAU ĐU CNG C GÁY VAI

Trên hình vẽ có 9 huyệt đánh số từ 1 đến 9 theo Hà Đ Lc Thư :

Quy tắc : Các huyệt số lẻ 1,3,5,7,9 day thuận chiều kim đồng hồ, số vòng day là lấy số đó nhân với 9.

Các huyệt số chẵn 2,4,6,8 day nghịch chiều kim đồng hồ, số vòng day là lấy số đó nhân với 6.

Cách day huyt theo th t : t 1 đến 9

Huyệt Đại chùy số 1, dùng ngón tay cái đặt trên huyệt ấn mạnh vừa đủ rồi day theo vòng tròn trên huyệt thuận chiều kim đồng hồ 9 vòng.

Huyệt Thừa linh 2 : Ấn vào huyệt day ngược chiều kim đồng hồ 12 vòng.

Huyệt Phong trì 3 : Day 27 lần thuận chiều kim đồng hồ.

Huyệt Thừa linh 4 : Day 24 lần nghịch chiều kim đồng hồ

Huyệt Phong phủ 5 : Day 45 lần thuận chiều kim đồng hồ

Huyệt Đại trữ 6 : Day 36 lần nghịch chiều kim đồng hồ

Huyệt Phong trì 7 : Day 63 lần thuận chiều kim đồng hồ

Huyệt Đại trữ 8 : Day 48 lần nghịch chiều kim đồng hồ

Huyệt Bách hội 9 : Day 81 lần thuận chiều kim đồng hồ .

Sau khi day xong là các huyệt tương đương với một cột thu sóng từ trường vũ trụ bắt đầu nhận năng lượng vũ trụ để hoạt động, vận hành thần kinh bộ não để tự chữa bệnh, lúc đó bệnh nhân có cảm giác đầu nhẹ, tỉnh táo, dễ chịu, mắt sáng, cổ gáy hết đau, cúi ngửa xoay trở dễ dàng…

Một ngày có thể làm 2-3 lần . Tối đi ngủ không nên làm, vì huyệt sẽ làm cho tỉnh táo không ngủ được.

clip_image003 clip_image005 clip_image007

clip_image009 clip_image011 clip_image013