Kính thưa bác Ngọc,
Cháu tên là Th. đã sắp sửa vào tuổi lục tuần, lúc nhỏ, yếu đuối bệnh tật liên miên. Sau 12 năm định cư ở Mỹ thì lập gia đình và mới có được bé trai. Bênh tật yếu đuối hoành hành gia đình đổ vỡ 1992. .Cháu quyêt định ở vậy và tu thiền khí công với mớ kiến thức ít ỏi vế tinh khí thần và ngũ hành ngũ tạng qua sách vở lúc bấy giờ.
1-Sau hơn 7 tháng bị phát hỏa ngồi đâu cũng thấy quá nóng nhất là phần hạ thừa, đến nổi đi thăm con, khi ôm con vào lòng nó dẫy dụa vì không chịu nổi hỏa trong người của cháu thoát ra, chỉ đành đứng nhìn con trong giây lát rồi về. Về đêm sức nóng cùng cực nên không áo y gì cả, lúc này chỉ ngồi thôi không hít thở gì cả, nhờ vào khí mát của đêm làm dịu bớt cái nóng trong mình.
2-Một đêm mơ mơ trong lúc ngủ, một dòng khí trong người phát động chạy xuống huyệt Dũng Tuyền,,đánh địt,,rồi bộp một tiếng to nghe bên trong đầu trước trán một một hình tròn trái hỏa châu quay trước trán, nhân thì màu đỏ mà chung quanh thì màu xanh vọn vẹn 3 giây, sau đó hơi xì ra ở hậu môn kéo dài và bụng xẹp lại, cảm giác lúc đó thât dễ chịu làm sao. Nhưng hỏa sau đó vẩn bôc lên đầu, thật đau như vòng kim cô thầy ạ, hai mắt hỏa bốc trông thật khiếp quá, bản thân không dám soi gương.ghê thật.
3-Đến năm 2001 về VN học nhân điện không biết cách nào mà đỉnh môn mở được một phần nên khí nóng thoát được ra ngoài!!! 2005 trán bắt đầu nhô ra chân mí tóc bắt đầu ngứa và lần hồi hở ra...2009 hơi nóng bắt đầu đi lên từ Khí Hải..đến vùng ức bắt đầu lói đau thấu tim thắt muốn nín thở..kéo dài đến 4 tháng thì ổn.Thưa thầy tình trạng hiện thời là hỏa đang nóng ở vùng xương ngực, thinh thoảng lan qua 2 xương ở bả vai...thả lỏng thì khí bốc lên đỉnh môn sợ quá nên cứ cho ý về xương ức lại....
Kinh thưa bác, khi đọc về Khí Công Y Đạo của bác cháu mừng lắm như phao cứu, kính mong xin bác vì lòng từ bi mà giúp cháu ở giai đoạn này,,Cháu thấy mình không có đường thối lui rồi mà tiến thì phải có bậc chân sư không thì hậu quả ắt khó lường, Mang thân 2 tật từ khi mới lọt lòng nên cảm nhận nghiệp đa mang nên hết sức cố công tu đạo để giải tỏa phần nào nghiệp thân. Bác ơi, đây là lời trần tình thống thiêt nhất của đời con, vì Bác là người đầu tiên con thố lộ.Thư vắn mà tình không thố lộ được hết trên trang mạng, mong duyên phận mà thôi.
Kính chúc bác tâm thân thường an lạc.
Cháu Th.
Trả lời :
Nội dung trong thư, tôi chia thành 3 câu hỏi để phân tích tìm nguyên nhân bệnh :
1-Người phát hỏa nhiệt :
Do tập thiền sai, thở cho khí tụ ở Đan Điền Tinh lại ngưng thở nên hỏa hầu tụ phần hạ thừa biến tinh trược hóa khí trược, sau đó lại chuyển trược khí ra sau Mạch Đốc bằng cách nhíu hậu môn làm tăng thêm hỏa hầu dẫn trược khí, nhiệt khí lên đốt cháy bộ não, khiến tính tình nóng nảy, người bốc hỏa, áp huyết và thân nhiệt tăng qúa cao, tính tình nóng nảy bực bội, do đó mà hạnh phúc gia đình đổ vỡ.. Đây là lối tập khí công làm tăng khả năng tình dục, vô tình tập thái qúa biến thành qủy dâm dục, vì hỏa khí không có lối thoát, trường hợp này có thể kiểm chứng được bằng máy đo áp huyết sẽ thấy áp huyết tăng rất cao, người rất nóng.
Tập Khí Công Y Đạo là loại khí công chữa bệnh thì khác, lúc nào cũng để ý quân bình âm dương của 3 yếu tố tinh-khí-thần hòa hợp. Riêng luyện tập khí công thuộc phần khí, cần phải mở đường cho khí thông khắp 12 kinh mạch của tạng phủ ngũ hành và thông Kỳ Kinh Bát Mạch, trong đó có hai mạch Nhâm-Đốc liên kết ngũ hành, cho nên môn tập thể dục khí công giúp cơ thể khai mở Đại Chu Thiên trước khi khai mở Tiểu chu Thiên là tập thở theo vòng Nhâm-Đốc Mạch.
Cần phải tập thể dục khí công để mở Đại Chu Thiên kết hợp với tập thở vòng Tiểu Chu Thiên Nhâm-Đốc mỗi ngày. Đại Chu Thiên là động công, Tiểu chu Thiên là tĩnh công.
Tập Tiểu Chu Thiên cũng tập theo giai đoạn từ thấp lên cao :
a-Giai đoạn sơ cấp, luyện thần với khí hòa hợp :
Tức là theo dõi hơi thở ra vào ở đỉnh đầu nơi huyệt Thiên Môn, khi thở vào cảm thấy khí vào đỉnh đầu, khi thở ra cảm thấy khí ra khỏi huyệt Thiên Môn. Giai đoạn này chỉ cuốn lưỡi, ngậm miệng, thở bằng mũi tự nhiên, theo dõi khí với thần hòa hợp, ra-vào từng huyệt, huyệt thứ nhất là Thiên Môn, huyệt thứ hai là Cưu Vĩ nơi Đan Điền Thần, huyết thứ ba Khí Hải nơi Đan Điền Tinh.
Chỉ với 3 bài tập này cũng đã tự chữa được 3 bệnh : Khi áp huyết thấp thì chỉ chú trọng tập thở ở Đan Điền Thần thôi cho đền khi người nóng, áp huyết tăng. Khi áp huyết cao vượt hơn tiêu chuẩn của khí công thì ngưng không được thở ở Đan Điền Thần nữa mà chỉ tập thở ở Đan Điền Tinh thôi, cho đến khi áp huyết xuống thấp như tiêu chuẩn thì ngưng. Khi cơ thể tự điều chỉnh áp huyết lên hay xuống như ý muốn ở hai Đan Điền, lúc đó mới chuyển sang giai đoạn chuyển Tinh hóa Khí.
b-Giai đoạn Tinh hóa Khí. :
Sau đó vào bài chinh là Lập Lư Đảnh để luyện đơn (luyện hơi thở từ Thiên Môn vào Đan Điền Thần, thở xuống Đan Điền Tinh, khí huyết qua Đan Điền Thần làm tăng dương, qua Đan Điền Tinh làm tăng âm, thành thuốc tự chữa bệnh), thời gian tập luyện cho tăng cả âm cả dương bằng nhau, các tiên gia cho rằng phải luyện cho đủ 8 lạng chân âm, 8 lạng chân dương hợp thành 1 cân đại dược Giai đoạn này tiên gia gọi là lửa Cung Ly đốt vàng Cung Khảm ( Ly là cung Hỏa ở Đan Điền Thần, Khảm là cung Thủy ở Đan Điền Tinh).
c-Giai đoạn Khí hóa Thần :
Tập thở khí vào từ Thiên Môn xuống Đan Điền Tinh, thở ra chuyển khí từ Đan Điền Tinh sang huyệt Mệnh Môn, để khí huyết nuôi dưỡng thần kinh tạng phủ dọc theo rễ thần kinh cột sống, nếu biết tập giai đoạn này thì thoát khỏi tình trạng tẩu hỏa biến thành qủy dâm dục, vì khí huyết dư thừa không chạy xuống bộ sinh dục mà được chuyển về hệ thần kinh cột sống.
d-Giai đoạn Thần Hoàn Hư :
Tập thở chuyển thanh khí chứ không phải trược khí, có nghiã khi kiểm chứng bằng máy đo áp huyết, mà cơ thể còn nóng, nhiệt, cao áp huyết, có nghĩa là trong máu còn độc tố, trong khí còn nhiệt độc, còn thanh khí là khí mát nhẹ ở thể hơi tự động chuyển lên não.
e-Phương pháp Xả Trược :
Trường hợp khi tập luyện hơi thở khí công, nếu cơ thể nóng, có những bài tập phụ để xả trược khí ra hai huyệt Lao Cung ở lòng bàn tay hay cho khí từ Đan Điền Tinh thông xuống đất qua huyệt Dũng Tuyền, hay cho khí từ Mệnh Môn thông ra khỏi đỉnh đầu nơi huyệt Thiên Môn. Như vậy là cơ thể có 3 lối xả khí thí không bao giờ bị tẩu hỏa nhập ma.
(Xem thêm sách Khí Công Y Đạo, do Nhà Sách Văn Lang xuất bản và phát hành ở VN, và có bán tại nhà sách Tự Lực ở Westminter, California.)
2- Được mở Luân Xa, không tập luyện thường xuyên, luân xa sẽ đóng lại.
Hỏa khí xuống Dũng Tuyền, chính là nó tự động Xả Trược tạm thời mỗi khí cơ thể có dư hỏa khí. Còn người tập khí công phải thường tập Xả Trược trước khi tập vào bài chính, và sau khi tập cảm thấy cơ thể tăng nhiệt, tăng áp huyết lại phải xả trược, mục đích tập luyện khí công chỉ để cho thanh khí lưu thông khắp Tiểu Chu Thiên, Đại Chu Thiên, và luôn luôn giữ quân bình âm dương, tự nó sẽ khai thông được các đại huyệt hay còn gọi là luân xa. Tập khí công y đạo luôn luôn tập đóng mở Thiên Môn, khai mở các luân xa, rồi mới nối vòng Tiểu Chu Thiên cho khí chạy thông từ Tiểu Chu Thiên ra khắp toàn thân và khắp các kinh mạch gọi là Đại Chu Thiên. Còn khi Nhân điện khai thông huyệt Luân xa 7 (khí công gọi là Thiên Môn) lúc đó khí được thoát ra khi huyệt được mở, sau huyệt tự động đóng lại, nên hỏa khí vẫn không có lối thoát, điều đó chứng tỏ nhiều người đã có những suy nghĩ sai lầm là đã được thầy khai mở luân xa thì luân xa đó luôn luôn mở là sai, nếu không tập luyện cho khí hay năng lượng ra vào thường xuyên.
3- Cứ cho ý về xương ức lại, làm tụ khí ở Đan Điền Thần sẽ tăng hỏa là sai.
Đối với khí công chữa bệnh theo kinh mạch âm dương, thì Mạch Nhâm là âm huyết, mạch Đốc là Dương Khí. Khí công mượn âm dương khí trời đất thông Nhâm-Đốc Mạch.
Thông Nhâm Mạch lấy thiên khí (dương khí) từ trời phải vào từ Thiên Môn qua Mạch Nhâm xuống Đan Điền Thần, Đan Điều Tinh, khi còn trược khí thì cho trược khí thoát xuống Dũng Tuyền xuống đất vào âm.
Thông Đốc Mạch thì lấy địa khí (âm khí) từ lòng đất qua huyệt Dũng Tuyền theo Mạch Đốc đi lên thông thoát ra khỏi Thiên Môn ở đỉnh đầu.
Ngược lại muốn thu giữ âm dương khí trời đất vào trong cơ thể khi cơ thể tập luyện đến trình độ lọc được thanh khí, Nhâm-Đốc không còn trược khí, thì dương khí từ Thiên Môn vào Đan Điền Tinh là dương khí biến tinh âm ở Khí Hải thành khí âm được chuyển sang Mệnh Môn thành dương khí. Còn âm khí từ Dũng Tuyền lên Mệnh Môn là âm khí biến tinh dương Mệnh Môn thành dương kbí được chuyển sang Khí Hải thành âm khí nuôi dưỡng huyết.
Nếu những người nào hiểu được những quy luật biến đổi âm dương và khai thông được các huyệt đạo hay luân xa, thì trình độ và đẳng cấp cao thấp do công phu bỏ thời gian tập luyện đều đặn nhiếu hay ít sẽ có kết qủa khác nhau, chúng ta có thể kiểm chứng biết được rất dễ dàng bằng cách đo khí lực, nhiệt năng, điện năng, điện từ trường, từ trường, quang năng ở mỗi đại huyệt hay luân xa, ở Thiên Môn, Ấm Đường, Lao Cung, hay vòng hào quang quanh người.
Nếu một người thầy dùng khí công hay nhân điện để chữa bệnh bằng bàn tay, thì bàn tay đó bệnh nhân cảm nhận được từ thầy chữa có những trình độ khác nhau như dưới đây :
a-Thấp nhất là khí vào cơ thể gọi là trình độ khí lực.
b-Cao hơn một bậc là nhiệt vào cơ thể, nhiệt này là do cơ thể bệnh nhân cảm nhận, còn bàn tay thầy chữa thì ấm bình thường, không nóng như lửa, nếu bàn tay lúc nào cũng nóng như lửa, thầy tưởng rằng trình độ mình cao là sai, đây là trường hợp thầy tập luyện sai làm tăng thân nhiệt và áp huyết, và thầy đang có bệnh áp huyết, vì không đo áp huyết để kiểm tra cho mình, nên nhiều thầy khí công nhân điện đều chết vì bệnh cao áp huyết hay tẩu hỏa nhập ma.
c-Cao hơn nữa là điện vào cơ thể cảm thấy có gì chạy lăn tăn trong ống máu, hay nơi chữa, gọi là trình độ nội lực.
d-Cao nữa là điện từ trường là vừa lăn tăn như điện vừa có lực từ trường hút vào hay đẩy ra, gọi là trình độ thần lực.
e-Cao hơn nữa là từ trường mình cảm nhận được lực hút vào đẩy ra rất mạnh, cao nhất là quang năng, mình cảm nhận được mầu sắc ánh sáng, hình ảnh, Ấn Độ gọi là linh ảnh, đó là trình độ huyền lực. Từ trình độ thần lực và huyền lực thì thầy chữa không bị lây nhiễm bệnh từ bệnh nhân, nên không bị mệt mỏi, vì phóng từ trưòng bằng bàn tay, bằng mắt bằng ý đều cách xa bệnh nhân..
Khi thầy tập đến trình độ quang năng là đã mở luân xa vía, từ đó có thể : Xuất thần lên cảnh thần tiên, Học thêm tâm pháp bí truyền cao siêu.
Như vậy, trong câu trả lời 3, là Th. không được người hướng dẫn, nên đã tập sai, cứ ém giữ khí tại xương ức Đan Điền Thần. Trường hợp này không cần chữa, mà bắt đầu học lại theo phương pháp Khí Công Y Đạo theo từng giai đoạn tập đã hướng dẫn ở trên và được kiểm chứng bằng máy đo áp huyết, máy đo đường, nhiệt kế…thì bệnh tự khỏi, khí huyết kinh mạch và luân xa được thông dễ dàng, cho đến khi có khí lực cơ thể sẽ khỏe mạnh không bệnh tật.
Để trợ lực trong việc chữa bệnh có kết qủa cũng phải biết đếm quân bình âm dương của những thức ăn hằng ngày, thuộc phân điều chỉnh Tinh. Bệnh nhiệt, cao áp huyết kiêng ăn đường, những chất cay nóng nhiệt, nên uống nước chanh, cam làm hạ nhiệt và áp huyết.. Bệnh áp huyết thấp kiêng nước chanh, cam, bưởi, dứa…Nên ăn thức ăn tăng nhiệt như chè ngọt, nhãn, xoài, mít, sầu riêng, chôm chôm, cam thảo, khô mực, gia vị cay như gừng, ớt…
Còn nếu muốn học khí công để trở thành thầy chữa bệnh cần thêm nhiều thời gian tập luyện và thực tập trên bệnh nhân sẽ có được nội lực, thần lực và huyền lực. Nếu không thực tập trên bệnh nhân thì chỉ có nội lực như các nhà tập luyện võ thuật, nội lực này không có lối thoát ra bằng cách cho người khác nội lực dư thừa của mình, nó sẽ dư nhiệt.lúc đó mình lại trở thành bệnh nhân.
Thân
doducngoc